CÂU CHUYỆN CỦA NIỀM TIN
1. Tôi đến từ nông thôn, gần như từ luống cày chui ra. Thế rồi, như bao
bạn trẻ khác, tôi rời quê khi học hết phổ thông. Rồi cũng như bao người
khác, tôi ra nước ngoài học tiếp khi xong đại học.
Gần mười
hai năm học tập và làm việc ở nước ngoài đã mang lại cho tôi nhiều trải
nghiệm thú vị. Một trong những thứ đó là niềm tin giữa con người với con
người.
Trước khi ra nước
ngoài, những hình dung của tôi về thế giới bên ngoài, về xã hội phương
Tây chỉ gói gọn trong mấy chữ: ăn chơi, đồi trụy, tội ác, lừa đảo, thù
địch, bóc lột, giãy chết. Tất cả đều là những tính từ và những danh từ,
đại từ chung. Rất ít bóng dáng những con người cụ thể, sự việc cụ thể.
Những ý niệm này đã len lỏi vào đầu tôi qua báo chí, phim ảnh, giảng
đường, đài truyền thanh... Ngay cả những bàn tán của người lớn quanh bàn
trà quê mỗi tối đôi khi cũng có những tác dụng tương tự.
Nhưng tịnh không có một lời nào về niềm tin giữa những con người trong
xã hội này. Dường như đó là xã hội của loài lang sói. Chỉ đất nước tôi
đang sống đây mới là xã hội của loài người. Tôi tin như vậy, và bao
người khác cũng tin như vậy.
Tin, nhưng trước mắt tôi lúc nào
cũng như có một một màn sương mù bao phủ làm tôi không nhìn rõ được điều
gì. Tất cả chỉ là suy đoán và cảnh giác. Một sự cảnh giác thường trực,
được rèn rũa.
Hình dung về xã hội bên ngoài trong đầu tôi là rõ
ràng và chắc nịch. Những nhận định được giảng đi giảng lại như một niềm
tin yêu vĩnh cửu lẽ nào lại có thể sai. Nhưng vì sao lại có màn sương
che phủ?
Những cái tên nước ngoài mỗi ngày thêm phổ quen
thuộc. Bên cạnh tên của các nhà khoa học mà tôi gặp hang ngày trên trang
sách, thì tên của cả các ca sĩ và các cầu thủ bóng đá cũng dần trở
thành những cái tên cửa miệng: tong trang sách, trên mặt báo, trên màn
hình ti vi, trong quán nước, ngoài đường phố.
Tôi nhận ra có
một sự mâu thuẫn đang quẩn quanh đâu đó chỗ này. Thế giới bên ngoài vừa
hấp dẫn vừa đáng sợ. Xã hội bên ngoài vừa cụ thể rõ ràng, vừa mập mờ
trừu tượng. Những cái tên nước ngoài vừa xa lạ vừa gần gũi.
Màn sương vẫn còn đó, dù đã mỏng đi đôi chút. Nhưng các ý niệm trong đầu
tôi vẫn vững chắc. Tôi tụ nhủ: Chân lý có bao giờ sai.
Nhưng vì sao chân lý lại ẩn nấp sau một màn sương mờ?
Tôi chìm trong sự hoài nghi dày đặc. Tôi hoang mang nhận ra các mâu
thuẫn. Và các diễn giải, không phải lúc nào cũng đưa ta đến gần sự thật.
Sự tò mò của tuổi trẻ đã kéo tôi ra khỏi màn sương đó. Tôi
muốn thấy bên ngoài họ sống và làm việc như thế nào. Tôi muốn nhìn thấy
nó rõ ràng. Mà như vậy, tôi chỉ còn một cách là phải đến tận nơi, sờ tận
tay, nhìn tận mặt...
2. Tôi ra đi với tâm trạng đầy tò mò và
cảnh giác. Để rồi cũng đầy vật vã khi nhận ra chân lý chỉ là định kiến
được tưới mãi vào đầu. Rồi cũng đầy an ủi khi thấy rằng đã là con người
thì ở đâu cũng có tin yêu, dù vẫn còn đó sự bất toàn, tốt xấu song hành.
Tôi lang thang từ hệ thống này sang hệ thống khác. Vấn đề là ở những định kiến mang tính hệ thống, chứ không phải ở con người.
Tôi dành hai năm để kết tinh lại nhận thức của mình. Tôi thay đổi, vì trải nghiệm, không phải vì những lời thuyết giảng.
Rồi tôi đi xa hơn nữa. Càng đi xa, tôi càng xót xa vì sự lệch lạc, thậm
chí kỳ quái, trong những nhận thức trước đây của bản thân mình.
3. Tôi có bạn bè mới, thầy cô mới, đồng nghiệp mới. Trong công việc
không có định kiến, không có phân biệt. Tất cả diễn ra trong một sự
trung thực và cởi mở hồn nhiên. Hồn nhiên đến mức ngạc nhiên.
Tôi chìm đắm trong bầu không khí dân chủ, bình đẳng và tinh thần tự do
học thuật. Tôi thấy mình được tôn trọng, và ý thức được mình có quyền
được người khác tôn trọng.
Tôi phải làm đủ thứ giấy tờ nhưng
không bao giờ thấy những con dấu đỏ. Chỉ cần một chữ ký cá nhân là đủ,
một cuộc điện thoại, một lá email là xong. Không ai hạch sách, không ai
đòi kiểm tra, không ai đòi công chứng bản gốc.
Tôi lên tàu
điện: không có người soát vé. Họ tôn trọng chúng tôi, và tin chúng tôi.
Thỉnh thoảng họ có đi kiểm tra định kỳ thì cũng rất lịch sự, không gây
cho mình cảm giác khó chịu.
Tôi ra siêu thị: không ai bắt tôi phải
gửi đồ trước khi vào mua hàng. Không ai kiểm tra chúng tôi khi ra. Họ
tôn trọng chúng tôi, và tin chúng tôi.
Tôi và một người bạn đi
mua bảm hiểm xe. Điều khoản cho thấy biết, nếu mất xe thì sẽ được đền
xe mới. Bạn tôi hỏi: nếu chúng tôi bán xe rồi báo mất thì sao? Nhân viên
bảo hiểm ngạc nhiên mất một lúc lâu mới nghĩ ra được câu trả lời: tôi
tin các anh không làm thế.
Lần đầu tiên tôi cảm nhận được sự
tin tưởng mang tính hệ thống. Một sự tin tưởng cá nhân mạnh mẽ lan tỏa
trong toàn xã hội. Chữ Tín được xác lập mà không cần sự có mặt của các
loại công chứng bản gốc, chứng thực, xác nhận...
Tôi vỡ ra: À, ra thế. Họ giàu mạnh vì họ tin ở con người.
4. Mười hai năm sau tôi trở về. Nhiều cái như xưa. Nhiều cái hơn xưa. Nhưng cũng nhiều cái tệ hơn xưa.
Tôi làm thủ tục nhận đồ mình gửi cho mình. Tên tôi đây. Địa chỉ tôi
đây. Hộ chiếu của tôi đây. Vậy sao mà rắc rối đến vậy? Sao phải xác
nhận? Sao phải chứng minh? Sao phải công chứng bản gốc?
Tôi có
làm gì đâu, chỉ là nhận đồ mình gửi cho mình thôi mà sao phức tạp như
vậy. Lẽ ra tôi chỉ chờ ở nhà, đúng hẹn công ty vận chuyển sẽ mang đồ
đến. Tôi chỉ cần ký xác nhận là xong.
Tôi được giải thích ở Việt Nam mọi thứ cần phải đúng quy trình chứ không đơn giản như vậy.
Tôi ngẫm ra: càng nhiều dấu đỏ, càng ít niềm tin. Mà càng ít niềm tin thì càng nghèo khó.
Tôi bật cười: nghèo khó đúng quy trình.
5. Tôi đưa gia đình đi siêu thị Big C Long Biên. Niềm vui khi thấy một
siêu thị bề thế, nhộn nhịp vừa mới nhen lên thì gặp ngay một chuyện ngỡ
ngàng: Tất cả những ai muốn vào siêu thị đều phải gửi đồ bên ngoài. Con
gái tôi có một túi khoác nhỏ để đựng mấy thứ lặt vặt cũng phải niêm
phong rồi mới được mang theo.
Vì sao vậy? Chúng tôi hỏi thì chỉ nhận được câu trả lời: Đây là quy định.
Quy định gì? Quy định không được tin nhau.
Câu chuyện có lẽ sẽ chỉ là một phiền toái buồn, nếu không có chuyện sau
khi thanh toán, tất cả khách hàng lại bị kiểm tra một lần nữa, và hóa
đơn phải được đóng dấu đỏ “đã thanh toán” thì mới được nhân viên an ninh
cho ra ngoài.
Chúng tôi tự hỏi: chuyện quái quỉ gì đang xảy
ra vậy? Quầy thanh toán có hai nhân viên kiểm tra và tính tiền. Từ quầy
thanh toán ra đến cửa ra này chỉ chừng 2 mét, lại không có hàng hóa gì
bày bán trên đoạn đường 2 mét đó. Vậy cớ sao phải kiểm tra lại? Cớ sao
phải đóng dấu vào hóa đơn thì mới được ra?
Vợ tôi phản ứng dữ
dội: Nếu kiểm tra mà không tìm thấy sai sót nào thì các anh có xin lỗi
chúng tôi không? Nhưng chúng tôi chỉ nhận được một câu trả lời lạnh
lùng: Đây là quy định.
Tôi nhìn những người xếp hàng chờ kiểm tra
và đóng dấu hóa đơn. Tất cả đều kiên nhẫn và ngoan ngoãn. Họ có thể làm
gì trên đoạn đường dài 2 mét đó để phải chịu cảnh khám xét?
Tôi lặng lẽ quan sát. Rất nhiều người lớn tuổi. Lịch sử như phảng phất
qua bộ quân phục cũ. Một vài nụ cười cầu hòa dù chủ nhân không làm gì
sai. Một vài ánh mắt lấm lét không có lý do. Nhiều gương mặt cam chịu và
chờ đợi cảnh được khám xét.
Tôi cố gắng tìm lý do để biện minh cho việc làm kỳ quái đó, nhưng không thể.
Tôi rút ra kết luận: Người Việt không tin người Việt. Người Việt không hiểu răng mình có quyền được người khác tôn trọng.
Xã hội đang bắt người Việt phải nghi ngờ nhau.
Nghi ngờ theo quy định.
Và có cả một hệ thống gia cường cho những quy định đó.
6. Chúng tôi ra về, nhưng câu hỏi: Vì sao người Việt không tin nhau vẫn
là một ám ảnh. Phải chăng chúng ta đã quen sống trong một sự cảnh giác
thường trực đến độ thành phản xạ có điều kiện? Phải chăng di chứng của
mấy chục năm chiến tranh vẫn còn hằn nặng, để người Việt luôn thấy mọi
thứ xung quanh đều là thù địch, đáng ngờ? Hay có một hệ thống tinh vi
đang bắt chúng ta phải nghi ngờ nhau “theo quy định, đúng quy trình”?
Tôi bất giác nhớ đến mớ giấy tờ đỏ choét những con dấu công chứng sao y
bản gốc. Tôi tự hỏi: Tôi và triệu người quanh tôi đã mất bao nhiêu thời
gian cho những thứ này?
Tôi thở dài: càng nhiều dấu đỏ, càng ít niềm tin.
Tôi tự hỏi: Phải chăng đang có một cuộc “khủng hoảng niềm tin”?
Và khi nào thì người ta không tin nhau?
Rõ ràng là khi có sự dối trá. Người ta không tin nhau khi cần phòng tránh sự dối trá.
Vậy là đang có một sự dối trá phổ biến, đến mức một đoạn đường 2 mét và được kiểm soát chặt chẽ cũng trở nên đáng ngờ.
Sự nghi ngờ đã lan trên từng mét đất.
Và chúng ta đã mất biết bao nhiêu thời gian và nguồn lực để cảnh giác, phòng tránh, đương đầu với sự dối trá này?
Không ai thống kê định lượng, nhưng chắc hẳn là rất nhiều. Nhiều đến
mức có thể làm cho đất nước ta kiệt quệ. Kiệt quệ vì luôn phải cảnh
giác, đề phòng.
7. Việt Nam đang rất cần một sự quy tụ nguồn
lực để phát triển. Nhưng quy tụ làm sao khi cả xã hội sống trong tâm
trạng cảnh giác thường trực, lúc nào cũng nơm nớp đề phòng? Quy tụ làm
sao khi sự giả dối đã trờ thành “nỗi nhục lớn”? Quy tụ làm sao khi niềm
tin giữa người với người đã trở lên cạn kiệt?
Việt Nam đang
rất cần hội nhập, rất cần làm bạn với thế giới bên ngoài. Nhưng hội nhập
làm sao khi luôn nhìn thế giới bên ngoài với con mắt thù địch nghi ngờ?
Làm bạn làm sao khi không có lòng tin vào đối tác của mình?
Đất nước đã thống nhất nhưng lòng người chưa thống nhất. Di sản của mấy
mươi năm chiến tranh quá đỗi nặng nề. Nhưng hòa giải, hòa hợp làm sao
khi sự nghi kỵ nhau đã được nâng lên thành quy định?
Niềm tin
là một vốn quý của xã hội. Nhiều học giả đã gọi niềm tin là một thành
phần quan trọng của vốn xã hội. Khi niềm tin cạn thì vốn xã hội cũng cạn
theo. Mà cạn vốn thì làm sao phát triển?
Vậy nên, câu chuyện
về vốn xã hội, trước hết phải là câu chuyện của niềm tin. Mà câu chuyện
của niềm tin thì có gì khác hơn là câu chuyện về sự trung thực?
Cũng vậy nên, để khôi phục được niềm tin và làm giàu thêm lưng vốn của
mình, vốn đã bị chiến tranh và những sai lầm trong lịch sử tàn phá làm
quá nhiều, thì trước hết phải khôi phục được sự thẳng ngay trung thực.
Không có sự trung thực thì không có niềm tin. Không có niềm tin thì
thời gian và nguồn lực sẽ chỉ dành cho việc nghi ngờ, đề phòng và cắn
quẩn lẫn nhau. Mà mề phòng cắn quẩn lẫn nhau thì nghèo hèn, tụt hậu sẽ
là điều tất yếu.
Tác giả: Giáp Văn Dương
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét